TÀI
LIỆU
KỸ
THUẬT TRỒNG VÀ CHĂM SÓC ỚT
PHẦN I: ĐẠI
CƯƠNG VỀ CÂY ỚT
I. GIÁ TRỊ DINH
DƯỠNG, KINH TẾ, NGUỒN GỐC VÀ SỰ PHÂN BỐ:
1. Giá trị dinh dưỡng:
Ớt là một loại rau quả, làm gia vị rất cần thiết trong
mỗi bữa ăn của con người, ớt có nhiều chất dinh dưỡng dễ tiêu hóa như đường,
đạm, caroten (tiền vitamin A), các sinh tố khác
như vitamin C, B1, B2...
Phân tích
100g ớt tươi chín đỏ ta có:
+ Nước chiếm
91%, Protid 1,3%, Glucid 5,7%, Cellulose 1,4%.
+ Cluoten 10mg, Vitamin C
250mg, 34 - 36calo/100g.
+ Vitamin C và A đứng đầu trong các loại gia vị.
Đặc biệt trong ớt có nhiều chất cay gọi là Capsicain
(C12H7NO3), hay Capsisin, là một ankaloid có
vị cay, thơm ngon chiếm từ 0,05 - 0,2%. Chất cay này dùng để chế biến thuốc,
chữa bệnh, nước hoa, dùng trong y học, quốc phòng. Tinh dầu ớt được chiết để
điều chế thuốc chống thấp khớp, rượu thuốc đỏ là loại thuốc chống bệnh hoại
huyết, ớt ngọt dùng làm thực phẩm (còn gọi là ớt thực phẩm), làm thực ăn trộn
(salat), nhồi thịt... ớt cay chủ yếu làm gia vị, rất dễ chế biến và sử dụng, có
thể ăn tươi, nấu chín, chế biến làm tương ớt, nước ớt muối chua, muối mặn, xay
bột, ép nước. ớt có màu sắc đẹp, có thể trang điểm cho bữa ăn, càng làm tăng
thêm phần hấp dẫn, ớt đã tham gia vào các ngành công nghiệp chế biến đồ hộp.
2. Giá trị kinh tế:
Ớt là cây gia vị quen thuộc của người dân. Ớt cay xay
thành bột là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị trong nhiều năm gần đây. Nếu chế
biến được tinh dầu ớt thì giá trị xuất khẩu lại tăng lên gấp bội.
Mỗi tấn ớt bột xuất khẩu loại 1 thu được 1.400 -
1.500rup tương đương 7 tấn đạm urê hoặc 17 - 18 tấn thóc. Nó là một mặt hàng
xuất khẩu có giá trị cao và ổn định về giá cả trong vòng nhiều năm lại đây.
Hiện nay ớt được xuất khẩu dưới dạng muối mặn (10 -
20% muối) hoặc quả khô bằng con đường tiểu ngạch ra nước ngoài. Xuất khẩu qua
công ty rau quả mỗi năm khoảng 500 - 700 tấn ớt quả. Một sào trồng ớt thu lãi 1
- 1,6 triệu đồng/vụ. Ớt là nguyên liệu trong công nghiệp chế biến thực phẩm,
làm gia vị. Ớt là chất cay tan trong nước và không bị mất mùi vị do đun nấu
hoặc bảo quản.
Cây ớt rất dễ tinh chế, kỹ thuật gieo trồng và đầu tư
cho sản xuất ít tốn kém và phức tạp so với một số cây trồng khác, ớt được trồng
trên nhiều chân đất khác nhau, nếu chăm sóc đúng kỹ thuật thì trên đất kém màu
mỡ vẫn cho năng suất, hiệu quả kinh tế lớn hơn một số cây màu, cây công nghiệp
khác cùng trồng trên đất ấy. Vì vậy đẩy mạnh trồng ớt là điều kiện sử dụng có
hiệu quả các loại đât, góp phần cải tạo đất trong một chế độ luân canh thích
hợp đồng thời tận dụng được sức lao động ở địa phương để phát triển nông nghiệp
toàn diện.
3. Nguồn gốc và sự phân bố:
Ớt có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới Châu Mỹ, chủ yếu ở
Nam Mỹ, sau đó tới Mêhicô, Goatêmala, Côlômbia. Ớt vào Châu Âu khoảng thế kỹ XV
đầu thế kỹ XVI, vào Châu Á thế kỹ XVIII, trên thế giới ớt trồng cả ở Châu Âu,
Châu Á, Châu Mỹ. Nước trồng ớt nhiều nhất là Ấn Độ, Brazin, Trung Quốc,... Ớt
là cây "đặc sản" của vùng
nhiệt đới.
Ở nước ta ớt được trồng thế kỹ XVIII, có thể trồng ớt
rộng rãi trong cả nước, chủ yếu trong vụ Xuân Hè, thời kỳ trồng ớt xuất khẩu
mạnh nhất từ 1986 - 1990, mỗi năm xuất khẩu trên 2000 tấn ớt bột khô.
II. ĐẶC ĐIỂM THỰC VẬT HỌC:
1. Bộ rễ:
- Thuộc loại rễ chùm, ăn sâu và phân nhánh mạnh về bốn
phía, có thể ăn sâu tới 70 - 100cm (gieo cố đinh) nhưng chủ yếu tập trung ở
tầng đất mặt 0- 30cm. Phân bổ theo chiều ngang với đường kính 50 - 70cm. Có hai
loại rễ: rễ chính ( rễ trụ) và rễ phụ (rễ bên).
- Bộ rễ có khả năng tái sinh nếu có thể thông qua thời
kỳ vườn ươm và nhổ đi trồng trần.
- Bộ rễ rất háo nước, ưa ẩm, ưa tơi xốp, không có rễ
bất định.
- Rễ ớt rất sợ ngập úng, chịu hạn khá hơn so với một
số loại cây rau khác.
- Sự phát triển của bộ rễ ớt có liên quan với các bộ
phận trên mặt đất hay sự phân nhánh của rễ có liên quan đến sự phát triển của
các cành cấp 1, cấp 2, cấp 3 trên thân.
- Gieo ớt ở nơi cố định, thời gian đầu sau 4 - 6 tuần
lễ, rễ chính ăn sâu tới 20cm. Thời gian này phân biệt về sau khi rễ phụ phát
triển mạnh, phân nhánh nhiều thì không rõ giữa rễ chính và rễ phụ. Ớt gieo
thẳng chống hạn tốt, rễ có thể ăn sâu lớp đất ở phía dưới trong một thời gian
dài hơn. Trường hợp trồng bằng cây con, rễ chính bị đứt, do đó kích thích rễ
bên phải phát triển mạnh hơn và phân bố chủ yếu ở tầng đất mặt.
- Bộ rễ ớt ăn nông hay sâu, mạnh hay yếu có liên quan
đến mức độ phát triển các bộ phận trên mặt đất. Phụ thuộc vào phương pháp
trồng, cấu tượng của đất, loại đất, độ ẩm và chế độ canh tác. Khi tưới nước đầy
đủ, bộ rễ ăn nông phân bố rộng và ngược lại khi gặp hạn, rễ ăn sâu và phân bố
hẹp.
- Nắm được đặc tính của rễ ta phải giữ ẩm, chống úng,
xới xáo, vun gốc cho cây vững chắc và tăng diện tiếp xúc của rễ.
2. Thân:
Thân thuộc loại thân gỗ, thân tròn, dễ gãy và một số
giống còn non thân có lông mỏng. Khi thân già, phần sát mặt đất có vỏ xù xì,
hóa bần. Thân chính cây ớt dài hay ngắn phụ thuộc vào giống, thường biến động
20 - 40cm thì ngừng sinh trưởng, trong lúc đó các nhánh mọc ra từ thân chính
phát triển mạnh nhánh cấp 1,2,3...Khi cây già thì khó phân biệt thân chính và
các nhánh cấp. Trên thân các cành phát triển mạnh và mọc đối xứng hoặc so le tùy
giống, kiễu lưỡng phân tạo cho cây ớt có dạng lật ngữa, do vậy rất dễ đổ khi
gặp mưa, gió mạnh (đa số các giống ớt hiện nay, các cành cấp 1 nằm so le còn
các cành xa cấp 1 mọc đối). Sự phân cành trên thân chính cao hay thấp, sớm hay
muộn là phụ thuộc vào các đặc tính của giống và kỹ thuật canh tác.
3. Lá ớt:
Lá ớt ngoài nhiệm vụ quang hợp, thì còn một đặc điểm
rất quan trọng để phân biệt giữa các giống với nhau. Lá có hai dạng chủ yếu:
dạng elip (bầu dục), dạng lưỡi mác.
- Phiến lá nhẵn không có răng cưa, đầu lá nhọn, gân lá
dày nỗi rõ, phân bố dày và so le.
- Cuống lá mập, khỏe, dài, chiều dài cuống thường
chiếm 1/3 so với tổng chiều dài lá (2,5 - 5cm) tùy giống.
- Lá ớt thường có màu xanh đậm, xanh nhạt, xanh vàng
và màu tím. Một số giống trên mặt lá non còn phủ lông tơ.
- Diện tích, hình dạng, màu sắc lá phụ thuộc vào giống
và điều kiện trồng trọt.
- Lá ớt nhiều hay ít có ảnh hưởng sản lượng quả sau
này. Lá ít không những ảnh hưởng đến quá trình quang hợp của cây mà còn làm cho
ớt ít quả vì ở mỗi nách lá nơi phân cành là vị trí ra hoa, ra quả.
4. Hoa ớt:
Ớt là cây hàng năm (cây một năm), hoa lưỡng tính (tự
thụ phấn). đầu nhụy chia 2 vòi dài, rất thuận tiện cho quá trình tự thụ phấn.
Hoa mẫu, đều, thường có hiện tượng rụng hoa, rụng nụ trên cây. Hoa thường phân
bổ đơn hoặc thành chùm (1 - 3 hoa/chùm) nhưng rất ít. Nhị có túi phấn tách rời
thành 2 - 3 bó.
- Khi gặp điều kiện ngoại cảnh bất lợi cho quá trình
thụ phấn, thụ tinh và sinh trưởng dinh dưỡng thì tế bào riêng lẽ có cấu tạo đặc
biệt bằng nhu mô được hình thành nơi đính cuống hoa (với cành nách lá). Lớp tế
bào này sẽ chết đi hình thành tầng rời và làm cho hoa bị rụng, sự mẫn cảm của
lớp tế bào này đối với điều kiện ngoại cảnh là phụ thuộc vào giống.
- Hoa ớt có màu trắng, nở vào buổi sáng vào lúc 9 - 10h
sáng.
- Qua quá trình phân hóa mầm hoa chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố như: nhiệt độ, ánh sáng, ẩm độ, dinh dưỡng và tỷ lệ C/N trên cây.
- Căn cứ vào đặc tính ra hoa phân loại ớt như sau:
+ Loại hình sinh trưởng vô hạn: Khi có nhánh đầu tiên
thì hoa xuất hiện sau đó cứ tiếp tục ra hoa khi xuất hiện các câp cành, cây
tiếp tục sinh trưởng cho đến khi chết. Đa số
các giống ớt có năng suất cao hiện nay đều sinh trưởng vô hạn (cây cao
cành nhiều).
+ Loại hình sinh trưởng hữu hạn: Khi cây xuất hiện
cành thứ nhất thì có hoa đầu tiên. Hoa tiếp tục xuất hiện trên các cành thứ cấp
khoảng đến cành cấp 4,5 thì cuối ngọn xuất hiện chùm hoa cuối cùng và cây ngừng
sinh trưởng chiều cao. Hiện nay loại này nước ta ít sử dụng.
5. Quả và hạt:
- Quả ớt thuộc loại quả mọng, nhiều nước, có 2 -3 ô
cách nhau bởi vách ngăn dọc theo trục quả (lõi quả). Cấu tạo quả chia làm 3
phần ( từ ngoài vào trong)
+ Thịt quả, xơ thịt và vỏ quả.
+ Nửa quả gần cuống to hơn và chứa nhiều hạt hơn nửa quả
phần ngọn. Hạt ớt nằm tập trung xung quanh lõi của quả. Phần lớn chất cay được
tập trung phần giữa đến cuống quả. Quả ớt chín có màu đỏ, vàng hoặc tím đen.
Dạng quả: to hoặc nhỏ, dài hoặc nhọn cuối quả (chìa
vôi), quả dài cong ở cuối quả (sừng bò).Ớt ngọt quả to hơn. Ớt cay, ớt ngọt có
nhiều hình dáng: tròn dẹt như quả cà chua, tròn dài như quả cà tím, quả đào,
bầu như quả lê, hoặc dạng sừng bò, chìa vôi phụ thuộc vào đặc tính của giống và
kỹ thuật canh tác.
+ Độ lớn của quả, trọng lượng và số lượng quả trên cây
nhiều hay ít phụ thuộc vào giống, do đó tỷ lệ chất khô/tươi của cây cũng phụ
thuộc vào giống và biện pháp kỹ thuật, hàm lượng chất cay, dinh dưỡng thay đổi
ngay trong một quả và phụ thuộc vào giống cũng như chế độ dinh dưỡng, nước.
- Hạt ớt nhẵn, dẹp, có màu vàng, P1000 hạt
4 - 5g. sức nảy mầm của hạt giống khá cao nếu bảo quản tốt có thể giữ được 2 -
3 năm.
III. MỘT SỐ GIỐNG ỚT HIỆN NAY TRONG SẢN XUẤT:
* Các nhóm
giống ớt: Trong sản xuất và đời sống
chủ yếu có 3 nhóm giống sau:
- Nhóm giống ớt cay: (ớt gia vị): Được trồng rất phổ
biến. Nhóm này có rất nhiều giống (địa phương, F1). Đại diện là ớt chìa vôi,
sừng bò, chỉ thiên.
- Nhóm giống ớt ngọt: nhóm giống này không phổ biến
trong sản xuất, chủ yếu trồng ở một số vùng chuyên canh, thí nghiệm ở các
trường đại học, các viện, trạm, trại nghiên cứu.
- Nhóm giống ớt cảnh: gồm những giống thấp cây, quả
nhiều màu, sử dụng để làm cây cảnh.
* Một số giống ớt phổ biến trong sản xuất:
-
Giống chỉ thiên:
Quả dài 5 - 8cm, quả nhọn, khi mọc quả chỉ thẳng lên
trời nên được gọi là chỉ thiên, đường kính quả từ 0,7 - 1cm. Cây cao nhiều
cành, thời gian sinh trưởng dài (trên 200 ngày). Nếu trồng phân tán trong vườn
thì có thể sống 2 - 3 năm. Trọng lượng 100 quả 50 - 60g, năng suất trung bình 5
- 8 tạ quả khô/ha, phẩm chất tốt, khả năng thích ứng rộng, chống chịu điều kiện
ngoại cảnh khá. Có thể trồng tận dụng làm bờ rào, thu nhiều lứa quả trên năm do
đó giá trị kinh tế cao.
Đặc biệt một số năm gần đây nước ta nhập về giống ớt Nun 2074 giống ớt siêu năng suất, tiềm năng năng suất cực khủng lên tới: 5 tấn/sào 360m2/vụ; vụ thu đông năm 2014, có hộ thâm canh đã đạt 4,3 tấn/sào 360m2.https://youtu.be/W2D0onJg72o
- Nhóm chỉ địa (trái hướng xuống đất):
Đa số trái to, cay ít đến cay
trung bình, được dùng nhiều trong các quán ăn, sử dụng dạng xắt lát mỏng, ăn
tươi hoặc làm tương ớt dạng bầm nhỏ hay xay. Trái hướng xuống đất, nằm dưới bộ
lá rậm rạp, thường dễ bị sâu bệnh tấn công, đặc biệt trong mùa mưa đuôi trái bị
đọng nước nên thiệt hại do bệnh thối trái (thán thư) rất cao, mưa nhiều, nước
trong đất thừa, cây hút nước nhiều trái dễ bị nứt.
+ Giống
sừng bò, chìa vôi: Quả dài 15 - 18cm, đầu nhọn, cong hoặc nhọn vót. Đường kính
1,5 - 2cm, màu đỏ tươi. Thời gian sinh trưởng dài từ 150 -180 ngày. Trọng lượng
trung bình 100 quả là 150 - 180g, có 30 - 80 quả trên cây, năng suất 15 - 20 tạ
quả khô/ha, sinh trưởng vô hạn, khả năng thích ứng rộng, phẩm chất tốt, hợp thị
hiếu người tiêu dùng.
+ Ớt cay Chilli (F1) của
công ty Trang Nông: Giống lai F1, trái suông dài 12 - 15 cm,
đường kính 1,2 - 1,4 cm, thịt đầy, trái chín màu đỏ tươi, nặng trung bình 15 -
16 g / trái, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, ít bị thối trái, cây cao 75 - 85 cm.
Hiện trồng nhiều ở huyện Trà Ôn, Vĩnh Long và Cần Thơ.
+ Ớt cay (F1) Hot Chilli
của công ty Hungnong (Hàn Quốc): Trái to, dài 13 - 15 cm, nặng 18 - 20 g /
trái, thịt dầy, cây phát triển mạnh, ít bị bệnh héo rũ, cháy lá, thán thư, trái
suông, chín tập trung.
+ Ớt cay lai F1 số 20 của
công ty Giống Cây Trồng Miền Nam: Trái to dài, chín tập trung, sinh trưởng
mạnh, ít bị bệnh săn đọt do siêu vi khuẩn
+ Ớt sừng trâu địa phương: Trái hơi cong ở đầu, dài 10 - 15 cm, cho
năng suất thấp 8 - 10 tấn /
ha, chỉ bằng phân nửa so với giống lai F1, dễ bị bệnh thán thư và xoăn đọt do
siêu vi khuẩn.
+ Ớt hiểm địa phương (chỉ
địa): Trái
hướng xuống thẳng, thon, dài 3 - 4 cm, chót đuôi trái nhọn, cay nhiều.
IV: YÊU CẦU ĐIỀU KIỆN NGOẠI CẢNH:
1. Nhiệt độ:
Ớt là cây có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới nên yêu cầu ấm
áp, nhiệt độ cao trong suốt quá trình sinh trưởng. Khả năng chịu hạn, chịu nóng
khá nhưng chịu rét và úng kém. Phạm vi nhiệt độ cho ớt sinh trưởng và phát
triển từ 15 - 35oC, bắt đầu nảy mầm ở 15oC nhưng nảy mầm
nhanh ở 25 - 30oC.
- Nhiệt độ thích hợp cho quá trình ra hoa kết quả là
20 - 25oC.
- Nhiệt độ không khí <10oC và >35oC
ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của ớt. Nếu thời gian nhiệt độ cao kéo
dài ớt sẽ rụng hoa, rụng lá và chết.
- Ớt là cây vừa sinh trưởng vừa phát triển nghĩa là
vừa ra cành lá nhưng lại vừa ra hoa quả trên cây, thời gian từ trồng đến thu
hoạch quả đợt 1 là 80 - 90 ngày nếu nhiệt độ thích hợp và chăm sóc tốt.
- Yêu cầu tổng tích ôn một chu kỳ sinh trưởng từ 3800
- 4000oC. Thời kỳ cây con cần 800 - 900oC, nếu gặp nhiệt
độ thấp thời kỳ cây con bị kéo dài, sinh trưởng chậm, hoa bị thui, ít hoa, hoa
không nỡ hoặc không có khả năng thụ phấn thụ tinh.
Yêu cầu nhiệt độ để thông qua giai đoạn xuân hóa có 2
loại: loại ớt thông qua giai đoạn xuân hóa ở nhiệt độ 20 - 26oC và
loại có phản ứng không rõ với nhiệt độ cao hay thấp.
2. Ánh sáng:
Ớt là cây có nguồn gốc vĩ độ Nam nên ưa cường độ ánh sáng mạnh.
Hầu hết các giống ở nước ta ưa ánh sáng ngày dài (đòi hỏi thời gian chiếu sáng
12 - 13giờ/ngày) và cường độ chiếu sáng mạnh, cường độ ánh sáng 40 - 50 ngàn có
thể thỏa mãn nhu cầu trong thực tế ớt có thể được cường độ ánh sáng mạnh đến
hàng vạn lux. Nhưng nếu trong quá trình sinh trưởng phát triển ánh sáng liên
tục từ `0 - 15 ngày ớt sẽ bị rụng lá, hoa và quả. Thiếu ánh sáng kết hợp nhiệt
độ không khí thấp, cây con sinh trưởng khó khăn, vươn dài, vóng, quá trình phân
hóa mầm hoa cũng bị ảnh hưởng, để tận dụng ánh sáng nên bố trí nơi trồng phải
giải nắng.
3. Nước, độ ẩm:
Ớt là cây có quả mọng nước, cành lá nhiều nên yêu cầu
có 1 lượng nước lớn.
- Ớt yêu cầu độ ẩm đất cao trong suốt thời kỳ sinh
trưởng
+
Thời kỳ cây con yêu cầu 70 - 80%
+
Thời kỳ ra hoa tạo quả yêu cầu 80 - 85%
+
Giai đoạn chín yêu cầu 70 - 80%
- Ẩm độ không khí thấp 55 - 65% trong quá trình sinh
trưởng.
- Nếu độ ẩm đất thiếu: quả bé, ít lứa quả, chín sớm,
năng suất thấp. Độ ẩm cao trước khi cây nở hoa sẽ làm sinh trưởng dinh dưỡng
quá mạnh, thời kỳ ra hoa, thụ phấn thụ tinh khó khăn, hoa bị rụng. Thời kỳ quả
chín dễ bị bệnh và lâu chín, tỷ lệ khô/tươi thấp. Phải tưới nước, che tủ luống
giữ ẩm, chống úng cho ớt.
4. Dinh dưỡng và đất trồng:
a/ Dinh
dưỡng: Ớt là cây có năng suất cao, có
thời gian sinh trưởng dài lại vừa ra hoa ra quả, quả lớn cùng một lúc do vậy
yêu cầu nhiều dinh dưỡng.
- Ớt cần dinh dưỡng nhiều về số lượng và chất lượng,
mẫn cảm với phân hữu cơ và phân chuồng. Vì vậy sử dụng phân bón thích hợp sẽ
nâng cao năng suất, chất lượng ớt.
- Trong các nguyên tố dinh dưỡng, ớt hút nhiều đạm,
thứ đến là K và lân, Ca cũng rất cần thiết cho quá trình sinh trưởng.
- Đạm cần trong suốt quá trình sinh trưởng, nhưng cần
thiết nhất ở thời kỳ phân cành đến ra hoa, ra quả vì xúc tiến phát triển cành
lá, hoa quả và là yếu tố quyết định năng suất ớt, quả chín nhanh và tăng phẩm
chất quả và chống chịu sâu bệnh.
- Kali xúc tiến quá trình quang hợp, quá trình vận
chuyển, tăng cường khả năng hút đạm, chống rét và hạn chế sâu bệnh, tăng trọng
lượng quả và phẩm chất quả (bón phân gà, vịt cho ớt rất tốt). Tăng khả năng
chín sớm và chống đỗ cho ớt. Ớt yêu cầu dinh dưỡng vào thời kỳ ra hoa, ra quả.
Do vậy phải bón kịp thời, đầy đủ, cân đối cho các đợt quả ra trước nhiều, đợt
quả ra sau không hoặc ít làm giảm trọng lượng. Tỷ lệ NPK thích hợp cho ớt là 2:
0,7:1 hay 2:1:1.
- Ca: Kích thích sự sinh trưởng của rễ, làm cho thân
cứng. Tránh ảnh hưởng độc của các nguyên tố làm tăng pH của môi trường dinh
dưỡng và tạo điều kiện tốt cho ớt hấp thụ tốt nhất các nguyên tố (lân, vi
lượng...).
Chú ý: Thiếu Ca đỉnh sinh trưởng yếu, lá màu vàng, quả
nhỏ. Yêu cầu Ca tăng lên trong điều kiện thiếu ánh sáng.
- Thiếu Kali xuất hiện vết nâu vàng ở mép lá, lá cuộn
lại, cây ngừng sinh trưởng, lá héo và chết.
- Thiếu lân cây cũng ngừng sinh trưởng, kéo dài thời
gian phát dục của quả và chín muộn. Thân có màu nâu tím, lá có màu xanh lục.
- Thiếu đạm: cây sinh trưởng, phát triển kém, cây bé,
ít hoa, ít quả, quả bé, năng suất thấp.
- Bón phân gà, phân vịt, khô dầu lạc làm tăng phẩm
chất ớt.
Ngoài những yếu tố chính trên ớt cần các nguyên tố vi
lượng để sinh trưởng và phát triển bình thường như: Bo, Mo, cu,
Fe, Mg....bón phân vi lượng sẽ nâng cao sản lượng và chất lượng quả.
b/ Đất trồng:
Ớt không kén đất nhưng tốt nhất là trồng trên đất cát
pha, thịt nhẹ, đất phù sa ven sông suối (đất bãi hàng năm có ngập nước, được
bồi phù sa hoặc đất có độ màu mỡ khá), đất thoát nước, giãi nắng, ớt ưa đất tơi
xốp, nhẹ, tầng canh tác dày. Đất đồi, đất cát nội đồng có mạch nước ngầm cao
nếu được chăm sóc tốt đều cho năng suất cao. pH thích hợp: 5,5 - 6,5.
V. CÁC GIAI ĐOẠN SINH TRƯỞNG CỦA ỚT:
1. Nảy mầm:
Tính từ khi gieo đến khi 2 lá mầm (8 - 10 ngày sau khi
gieo)
Yêu cầu nhiệt độ: 25 - 30oC, ẩm độ 70 -
80%.
2. Thời kỳ cây con: (2 lá mầm đến 5, 6 lá thật)
Thời gian khoảng 30 - 40 ngày sau khi gieo.
Yêu cầu nhiệt độ 18 - 20oC, ẩm độ đất 80%.
3. Thời kỳ hồi xanh: sau trồng 5 - 7 ngày.
Yêu cầu nhiệt độ: 18 - 20oC, ẩm độ đất 80%.
4. Thời kỳ phân cành: 20 - 25 ngày sau trồng
Yêu cầu ẩm độ 70%, yêu cầu đạm, lân, kali nhưng nồng
độ thấp.
5. Thời kỳ ra hoa: sau trồng 40 - 45 ngày
Yêu cầu tối đa về dinh dưỡng, nước, nhiệt độ 20 - 25oC,
ẩm độ đất 80 - 90%.
6. Thời kỳ ra quả và chín:
- Ra quả đợt 1: 50 - 60 ngày sau trồng.
- Thu hoạch quả đợt 1: 90 - 100 ngày sau trồng.
- Thu hoạch quả đợt 2 đến thu quả đợt cuối cùng: 110 -
180 ngày sau trồng.
Thời gian ra quả và thu hoạch liên tục trên 1 tháng.
Giai đoạn này yêu cầu tối đa về dinh dưỡng và nước. Yêu cầu về nhiệt độ 20 - 30oC
và ẩm độ 80%. Qua các giai đoạn sinh trưởng và phát triển ta cần tác động các
biện pháp kỹ thuật thích hợp, chọn thời vụ trồng và có chế độ chăm sóc tốt.
PHẦN II: KỸ THUẬT TRỒNG ỚT.
1. Thời vụ:
- Vụ sớm: Gieo từ ngày 20/10 - 5/11, trồng 30/11 - 15/12,
tuổi cây con là 40 - 45 ngày, thường trồng cho những vùng gò đồi, bãi cát nước
rút sớm hoặc vùng đất cát.
- Vụ chính: Gieo từ ngày 20/11 - 5/12, trồng 30/12 - 02/01,
tuổi cây con là 40 ngày trồng ở các vùng đồng bằng, ven biển.
- Vụ muộn: Gieo từ 25/12 - 5/01, trồng 5/02 - 10/02,
tuổi cây con là 45 ngày, trồng ở những vùng nước rút chậm, đất thấp, được áp
dụng chủ yếu do thời tiết mưa hết sớm hay muộn mà áp dụng thời vụ cho từng năm.
Thời vụ trồng muộn nhất từ 20/2, không được muộn quá.
2. Mật độ trồng:
Tùy thuộc vào đất đai và giống mà có thể trồng mật độ
trung bình 60 x 50cm với khoảng 32 nghìn cây/ha. Mỗi luống trồng 2 hàng, kiểu
nanh sấu trên luống.
Mỗi luống rộng từ 0,9 - 1,2m; cao 20 - 25cm, rãnh
luống rộng 20 - 25cm.
Cách ươm cây giống đối với ớt: Đưa hạt ngâm nước 2 đêm
đem bọc vãi 3 - 4 ngày, nơi có nhiệt độ cao (30oC như gần bếp lò, lò
sưởi) khi hạt nảy mầm thì đem gieo vãi trên luống, phủ một lớp đất bột mỏng, tiếp
tục phủ một lớp tro trấu hay rơm rạ bằm
nhỏ phòng trời mưa to trôi hạt. Tưới nước giữ ẩm. Sau khi gieo 8 - 10 ngày cây
mọc, sau 30 ngày tuổi có thể nhổ đi trồng được.
Lượng hạt gieo khoảng 1 ha trồng cần 1kg hạt giống
trong đó kể cả giống dự phòng.
3. Làm đất và phân bón:
- Chọn đất: cây ớt không kén đất nhưng để ớt sinh
trưởng thuận lợi thì cần chọn đất thịt nhẹ, cát pha, cát nội đồng, pH trung
tính (6 - 7). Ớt trồng luân canh tốt với các cây hoa màu, đậu, đổ đất mạ chiêm
xuân, đất trồng ớt phải cày bừa sạch cỏ, bón vôi khử chua, diệt mầm mống sâu
bệnh. Dở hốc sâu 10 - 15cm để bón phân hữu cơ (nơi đất thấp ẩm có thể trồng 3 -
5cm).
*Phân bón: Lượng phân bón cho 1 ha cần:
+ Phân chuồng: 25 - 30 tấn
+ Phân xanh: 10 - 20 tấn
+ Urê: 150 - 200 kg
+ Lân: 70 - 80 kg
+ Kaly: 100 -
120 kg
Theo tỷ lệ 2:1:1 hay 2:0,8:1
+ Vôi bột: 400 - 500 kg vôi bột. Vôi được bón lúc cày
ải trước trồng 10 - 15 ngày.
*Cách bón:
- Bón lót: Bón toàn bộ phân lân + phân chuồng vào hốc
+ 1/4 lượng đạm + 1/4 K2O trộn đều trong hốc.
- Bón thúc: 3 lần:
+ Lần 1: Sau trồng 15 - 20 ngày: 1/4N + 1/4K2O,
nếu có phân xanh thì bón phủ (10 tấn/ha).
+ Lần 2: Bắt đầu ra hoa 1/4N + 1/4K2O, che
tủ phân xanh còn lại lên luống và lấp đất.
+ Lần 3: Sau khi quả lứa 1 chín: 1/4N + 1/4K2O
còn lại. Ngoài ra còn có thể thêm phân hữu cơ dung dịch lúc ớt ra quả.
Chú ý: Nếu phân chuồng hoai mục bón hiệu quả hơn thì lót 1/2
và 1/2 còn lại thúc vào thời kỳ bắt đầu ra hoa (bón vào hai hàng ớt và lấp đất,
kết hợp phân xanh giữ ẩm chống cỏ dại, có thể dành toàn bộ N + K để thúc mà
không bón lót vì sợ xót cây khi trồng).
4. Trồng ớt:
Trộn đều phân và lấp đất mỏng sau đó đặt cây theo
chiều thẳng đứng tự nhiên cho rễ phân bố đều và phủ đất ấn chặt gốc, độ sâu 2 -
3cm lấp đất bằng phần rễ cây mọc trên vườn ươm ( bằng phần vừa nhổ lên gốc).
Sau đó khỏa và lấp đất vào hốc, để gốc cao hơn mặt luống (phòng ứ đọng nước lúc
mưa). Nếu trồng ớt vụ muộn thì hốc thấp hơn mặt luống một ít, đễ giữ nước có độ
ẩm, giúp cây phát triển tốt.
5. Chăm sóc: chú ý 3 thời kỳ
a. Từ trồng đến hồi xanh:
- Tưới nước: Trồng tưới nước đủ ẩm cho cây chống hồi
xanh, sau đó giữ ẩm từ 70 - 80%
- Dặm cây: trồng 5 - 7 ngày thì kiểm tra và dặm cây
kịp thời bảo đảm mật độ. Xới xáo kết hợp thúc lần 1 và vun gốc nhẹ sau trồng 15
- 20 ngày.
Chú ý: thúc cách gốc 5cm, nếu tưới phải pha loãng và thoát
nước tốt trên ruộng.
b. Thời kỳ hồi xanh đến ra hoa:
Thời gian sau trồng 40 - 45 ngày, cây sinh trưởng dinh
dưỡng mạnh, yêu cầu ẩm độ 70 - 75% do bộ rễ phát triển sâu.
+ Thúc lần 2 kịp thời kết hợp với vun cao lần cuối (
sau trồng 30 ngày).
+ Tủ gốc, giữ ẩm và chú ý không được để đọng nước lâu.
c. Thời kỳ ra hoa đến thu quả đợt
cuối cùng: chia làm 2 giai đoạn:
+ Bắt đầu ra hoa đến thu quả đợt 1: (50 - 95 ngày sau
trồng) cây ra hoa, ra quả quyết định năng suất sản lượng. Tiếp tục giữ ẩm 80 -
85%, bón thúc lần 3.
+ Thu quả đợt 1 đến kết thúc chu kỳ sinh trưởng (thu
cuối cùng). Cây luôn luôn vừa ra hoa vừa ra quả nên giữ độ ẩm 70 - 85%. sau mỗi
lứa thu hoạch tùy điều kiện sinh trưởng trên ruộng mà thúc thêm phân.
Chú ý: Đối với ớt, không được tưới tràn trên mặt luống
để kéo dài thời gian thu quả. Nếu tưới rãnh chỉ để nước ngấm vào rảnh rồi tháo
ra ngay.
6. Phòng trừ
sâu bệnh hại:
Ớt có thời gian sinh trưởng dài 6 - 7 tháng nên có
nhiều sâu bệnh gây hại nhưng nặng nhất là tháng 3,4,5.
6.1. Sâu hại ớt:
6.1.1: Sâu xanh da láng: Spodoptera
exigua Hübner
Họ Ngài Đêm (Noctuidae);
Bộ Cánh Vảy (Lepidopera)
- Đặc điểm hình thái
và sinh học:
Hình dạng rất giống sâu xanh nhưng nhỏ con hơn (dài 10
- 15 mm), da xanh lục với 2 sọc vàng nâu chạy dọc 2 bên thân mình, không có u
gai trên lưng như sâu xanh.
Bướm nhỏ hơn, màu nâu và có 1 đốm vàng ờ giữa cánh rất
đặc sắc. Bướm cũng đẻ trứng ban đêm trên lá nhưng thành từng ổ từ 20 - 30 trứng
có phủ lông trắng do chùm lông ở cuối bụng của con cái.
Chu kỳ sinh trưởng của sâu khoảng 1 tháng, ngắn hơn nhiều
so với sâu xanh hay các loài sâu khác cùng họ Noctuidae. Có lẻ vì vậy mà sâu phát triển và gia tăng mật số rất
nhanh, lây lan rất dễ vì chúng cũng ăn cả ớt, hành, cà chua, bắp... và kháng
thuốc rất mạnh.
- Biện pháp phòng trừ:
Cũng áp dụng chiến lược tương tự
như đối với sâu xanh nhưng cần chú ý thêm các điểm sau đây:
Sâu gia tăng mật số nhanh hơn và
kháng thuốc cũng mạnh hơn nên chú ý kiểm tra kỹ khi cây còn non để có thể bắt
sâu hoặc ổ trứng, hay cần lắm thì phun thuốc ngăn chặn kịp thời không cho bộc
phát mật số, nhất là trong vụ Xuân - Hè là mùa có mật độ số sâu cao nhất.
Vào cuối vụ Xuân - Hè thì mật số
của các loài thiên địch thường tăng cao như nấm ký sinh, vi rút NPV, ong kén
trắng... Do đó nên hạn chế sử dụng thuốc sâu vào lúc này để bảo vệ chúng. Khi
cần thiết, có thể phun các loại thuốc như SUCCESS hoặc MATCH để phòng trị.
6.1.2:
Sâu ăn tạp (Spodaptera litura Fabricius)
Họ Bướm Đêm (Noctuidae); Bộ Cánh Vảy (Lepidoptera)
- Phân bố và ký chủ:
Sâu ăn tạp là loài có phổ ký chủ
rộng, phân bố hầu hết các nơi trên thế giới.
Sâu ăn tạp là một trong những
loài sâu ăn lá quan trọng, là loài sâu đa thực có thể phá hại đến 290 loại cây
trồng thuộc 99 họ thực vật bao gồm các loại rau đậu, cây thực phẩm, cây công
nghiệp, cây lương thực, cây phân xanh,...
- Đặc điểm hình thái và sinh học:
Bướm có chiều dài thân khoảng 20 -
25mm, sải cánh rộng từ 35 - 45mm. Cánh trước màu nâu vàng, giữa cánh có vân
trắng, cánh sau màu trắng óng ánh. Bướm có đời sống trung bình từ 1 -2 tuần tuỳ
điều kiện thức ăn.
Trung bình một bướm cái có thể đẻ
300 trứng, nhưng nếu điều kiện thích hợp bướm có thể đẻ từ 900 - 2000 trứng.
Thời gian đẻ trứng trung bình của
bướm kéo dài từ 5 - 7 ngày đôi khi đến 10 - 12 ngày.
Trứng có hình bán cầu, đường kính
từ 0,4 - 0,5mm. Bề mặt trứng có những đường khía dọc từ đỉnh trứng xuống đến
đáy và bị cắt ngang bởi những đường khía ngang tạo thành những ô nhỏ.
Trứng mới nở có màu trắng vàng, sau chuyển
thành màu vàng tro, lúc sắp nở có màu tro đậm.
Ổ trứng có phủ lớp lông từ bụng
bướm mẹ. Thời gian ủ trứng từ 4 - 7 ngày.
Thời gian phát triển của ấu trùng
kéo dài từ 20 - 25 ngày, sâu có 5 - 6 tuổi tuỳ thuộc điều kiện môi trường.
Nếu điều kiện thuận lợi sâu có
thể dài từ 35 - 53mm, hình ống tròn. Sâu tuổi nhỏ có màu xanh lục, càng lớn sâu
chuyển dần thành màu nâu đậm.
Trên cơ thể có một sọc vàng sáng
chạy ở hai bên hông từ đốt thứ nhất đến đốt thứ tám của bụng, mỗi đốt có một
chấm đen rõ nhưng hai chấm đen ở đốt thứ nhất to nhất.
Sâu càng lớn, hai chấm đen ở đốt thứ nhất
càng to dần và gần như giao nhau tạo thành khoang đen trên lưng nên sâu ăn tạp
còn được gọi là “sâu khoang”.
Thời gian phát triển
nhộng kéo dài 7 - 10 ngày, kích thước dài từ 18 - 20 mm. Nhộng sâu ăn tạp có
màu xanh đọt chuối, rất mềm ngay khi mới được hình thành, sau đó chuyển dần
sang màu vàng xanh, cuối cùng có màu nâu, thân cứng dần và có màu nâu đỏ.
Khi sắp vũ hoá, nhộng có màu nâu
đen, đốt cuối của nhộng có thể cử động được.
Nhìn chung, vòng đời của
sâu ăn tạp tương đối ngẳn trung bình 30,2 ngày, trong đó giai đoạn ấu trùng
chiếm trung bình 21,7 ngày, đây là giai đoạn gây hại quan trọng của sâu ăn tạp.
Khả năng sinh sản mạnh
cùng với thời gian phá hại kéo dài vì thế sâu ăn tạp là đối tượng gây hại quan
trọng cho rau màu.
- Tập quán sinh sống và cách gây hại:
Bướm thường vũ hoá vào
buổi chiều và bay ra hoạt động vào lúc vừa tối, ban ngày bướm đậu ở mặt sau lá
hoặc trong các bụi cỏ. Bướm hoạt động từ tối đến nửa đêm, có thể bay xa đến vài
chục mét và cao đến 6 - 7 mét. Sau khi vũ hoá vài giờ, bướm có thể bắt cặp và
một ngày sau đó có thể đẻ trứng.
Sâu ăn tạp ăn phá nhiều
loại cây nên có mặt quanh năm trên đồng ruộng. Sâu cắn phá mạnh vào lúc sáng
sớm nhưng khi có ánh nắng sâu chui xuống dưới tán lá để ẩn nấp.
Chiều mát sâu bắt đầu
hoạt động trở lại và phá hại suốt đêm.
Sâu vừa nở ăn gặm vỏ
trứng và sống tập trung, nếu bị động sâu bò phân tán hoặc nhả tơ buông mình
xuống đất. Sâu tuổi 1 - 2 chỉ ăn gặm phần diệp lục của lá và chừa lại lớp biểu
bì trắng, từ tuổi 3 trở đi sâu ăn phá mạnh cắn thủng lá và gân lá.
Ở tuổi lớn khi thiếu thức
ăn, sâu còn tập quán ăn thịt lẫn nhau và không những ăn phá lá cây mà còn ăn
trụi cả thân, cành, trái non. Khi làm nhộng, sâu chui xuống đất làm thành một
khoang và nằm yên trong đó hoá nhộng.
- Biện pháp
phòng trừ:
+ Biện pháp canh tác:
Đất trước khi trồng cần phải được
cày, phơi và xử lý thuốc trừ sâu hoặc cho ruộng ngập nước 2 - 3 ngày để diệt
nhộng, sâu non có trong đất. Phải thường xuyên đi thăm ruộng để kịp thời phát
hiện sâu, ngắt bỏ ổ trứng hoặc tiêu diệt sâu non mới nở khi chưa phân tán đi
xa.
Ngài sâu khoang có khuynh hướng
thích mùi chua ngọt và ánh sáng đèn, do đó có thể dùng bả chua ngọt để thu hút
bướm khi chúng phát triển rộ.
Bả chua ngọt gồm 4 phần giấm + 1
phần mật + 1 phần rượu + 1 phần nước. Sau đó đem bả mồi vào chậu rồi đặt ở
ngoài ruộng vào buổi tối nơi thoáng gió có độ cao 1m so với mặt đất.
+ Biện pháp sinh học:
Sâu ăn tạp thường bị 4 nhóm ký
sinh sau: côn trùng ký sinh (Ong thuộc họ Braconidae
và ruồi thuộc họ Tachinidae ), nấm ký
sinh (Beauveria sp. và Nomurea
sp. ), siêu vi khuẩn gây bệnh VPV, vi
khuẩn và Microsporidia.
+ Biện pháp hoá học:
Atabron được dùng làm nền phối
hợp với các loại thuốc còn lại hoặc với các loại thuốc Cúc tổng hợp sẽ cho hiệu
quả phòng trị rất tốt.
Sâu ăn tạp cũng rất dễ kháng thuốc, nên luân phiên
nhiều loại thuốc để phun.
6.2: Bệnh hại:
6.2.1. Bệnh thán
thư hại ớt:
Triệu chứng:
Bệnh thường gây hại nặng trong mùa mưa và có nhiệt độ
cao, mùa nắng bệnh ít gây hại hơn.
Bệnh thường gây hại từ già đến chín, nếu giống mẫn cảm
bệnh gây hại cả trên trái non.
Vết bệnh lúc đầu là những đốm tròn có màu xanh đậm,
sau đó vết bệnh lớn dần có hình tròn hoặc bầu dục, vết bệnh lõm xuống có màu
vàng nhạt đến trắng xám hoặc đen.
- Tác nhân
gây bệnh:
Nếu vết bệnh có màu trắng trắng xám, bên trong có
nhiều vòng đồng tâm nhô lên và có màu vàng nhạt, trên đố có những chấm nhỏ li
ti màu vàng do nấm Colletotrichum spp. gây ra (Colletotrichum gloeosprioides;
C. capsici; C. acutatum; C. coccodes)
Nếu vết bệnh có màu đen không có nhiều vòng đồng tâm,
trong vết bệnh có nhiều chấm nhỏ li ti màu đen, và chỉ gây hại trên trái chín
mà thôi, do nấm Volutella sp. gây ra.
- Cách phòng trừ:
Nấm tồn tại trong tàn dư thực vật, thu hái
các trái bệnh đem thu huỷ.
Luân canh, không trồng cây họ cà ớt trong
vòng 2 - 3 năm
Chọn giống kháng bệnh, tăng cường bón thêm
phân chuồng hoai mục cho ruộng ớt
Tránh trồng ớt trong mùa mưa.
Phun thuốc Copper B 75 WP, Score 250 EC,
Appencarb, FOLPAN 50SC, ... nồng độ 0,2 - 0,5% khi bệnh gây hại.
6.2.1. Bệnh héo xanh:
- Triệu chứng bệnh:
Bệnh gây hại nặng ở vùng trồng ớt trong suốt mùa mưa
trong vùng khí hậu nhiệt đới.
Bệnh xãy ra rãi rác trên từng cây hoặc từng nhóm cây ở
giữa ruộng. Triệu chứng đầu tiên trên cây già là các lá bên dưới bị héo nhẹ;
nhưng ở cây con thì các lá non bị héo trước. Sau vài ngày cây bất thình lình
héo nhanh nhưng lá không vàng.
Chẻ thân ở phần gốc và rễ ta thấy các mạch
nhựa biến thành màu xám đất đến nâu nếu nhúng phần bị cắt vào nước ta sẽ thấy dòng
vi khuẩn tuôn ra có màu trắng sửa.
- Tác nhân gây bệnh:
Do vi khuẩn Pseudomonas
solanacearum gây ra.
- Biện pháp phòng trị:
Lên líp cao thoát nước tốt, bón vôi.
Luân canh không trồng họ cà ớt trên ruộng bị nhiễm
nặng 2 - 3 năm.
Tưới nước Copper zinc 85WP, Starner 20WP... 0,5 - 1%
vào gốc cây mới bị bệnh.
Nhổ và tiêu huỷ các cây bị bệnh nặng để
tránh lây lan.
6.2.3. Bệnh thối đọt non
hại ớt:
- Triệu chứng bệnh:
Bệnh thường gây hại nặng trong mùa mưa hoặc gặp khi
thời tíêt ẩm có nhiệt độ khá cao.
Bệnh thường gây hại trên hoa, chồi hoa, hoặc các nhánh
non của cây.
Mô cây nơi bị nhiễm bệnh có màu nâu đen đến đen, và
nấm lan nhanh xuống phần dưới, làm phần đọt bị chết và thối mềm ra. Trong điều
kiện ẩm độ cao nơi phần bị thối ta thường thấy có tơ nấm màu trắng và tận cùng
có phình tròn màu đen.
- Tác nhân gây bệnh:
Do nấm Choanephora cucurbitarum gây ra.
- Biện pháp phòng trị:
Không trồng ớt quá dày, làm cỏ tạo cho ruộng ớt thông
thoáng.
Tránh trồng ớt vào mùa mưa.
Liếp phải cao
và thoát nước tốt.
Không tưới nước
quá đẩm vào chiều mát khi có bệnh xuất hiện.
Phun thuốc Score 250 EC, FOLPAN 50SC ... nồng độ 0,2 - 0,5% khi bệnh gây
hại nặng
6.2.4. Bệnh khảm:
- Triệu chứng:
Bệnh thường gây hại ở giai đoạn cây ra hoa kết trái
trở về sau, bệnh gây hại nặng trong mùa nắng nóng và nhẹ trong mùa mưa.
Bệnh thường làm lá đọt nhỏ, xoắn lại, lá không phát
triển, lóng ngắn, cây trở nên giòn dễ gãy. Bệnh nặng cây còi cọc, hoa bị vàng
nhỏ và rụng, cây rất ít trái, trái nhỏ và vặn vẹo. Cuối cùng cây có thể bị
chết.
- Tác nhân gây bệnh:
Do virus gây ra; côn trùng chích hút như
rầy mềm, bù lạch là vector truyền bệnh
- Biện pháp phòng trị:
Không sử dụng
nguồn giống ở những ruộng bị bệnh.
Bón phân cân đối
và tăng cường thêm lượng phân chuồng hoai mục để tăng khả năng chống chịu được
bệnh.
Phun thuốc trừ nhóm côn trùng chích hút bằng thuốc ACTARA 25WG,
VERTIMEC 1.8 ND.
Nhổ cây bị bệnh đem tiêu hủy để tránh lây
lan.
6.2.5. Bệnh chết rạp cây
con:
Bệnh do một loại nấm gây nên có tên khoa
học là Rhizoctonia solani pythium spp; Fusarium spp gây ra. Nấm thường tấn
công làm cây con chết rũ ngang gốc thân hay phần tiếp giáp giữa thân với mặt
đất. bệnh xảy ra ở những nơi ẩm ướt và sử dụng phân chuồng chưa hoai mực để
bón.
6.2.6.
Héo rũ gốc mốc trắng
- Tác nhân gây bệnh: Do nấm Sclerotium
rolfsii.
- Triệu chứng bệnh: Triệu chứng điển hình
của bệnh được thể hiện rõ nhất từ khi cây ra hoa - hình thành quả - thu hoạch.
Nấm xâm nhiễm vào phần thân cây sát mặt đất, vết bệnh lúc đầu nhỏ màu nâu tươi
hơi lõm, về sau vết bệnh lan rộng có thể dài tới vài centimet bao quanh thân,
gốc, lan rộng xuống tận cổ rễ dưới mặt đất. Mô vết bệnh dần dần bị phân hủy,
các lá dưới gốc héo vàng và rụng trước, sau đó lan lên các lá phía trên, cuối
cùng dẫn tới các lá héo rũ, cây khô toàn thân.
Khi cây mới nhiễm bệnh thì rễ cây vẫn bình thường, sau
đó rễ dần dần hóa nâu, thâm nâu và thối mục. Trong điều kiện nhiệt độ tương đối
cao, ẩm độ cao thì trên bề mặt vết bệnh sát mặt đất sẽ xuất hiện lớp nấm màu
trắng phát triển mạnh, sợi nấm mọc đâm tia lan dần ra mặt đất chung quanh gốc
cây, tạo thành một đốm tản nấm màu trắng xốp, một vài ngày sau trên tản nấm đó
sẽ hình thành nhiều hạch nấm.
Khi còn non hạch có màu trắng sau chuyển dần sang màu nâu
giống hạt cải. Bệnh xuất hiện có thể rải rác hoặc từng vạt trên ruộng tùy theo
điều kiện ngoại cảnh đất đai và quá trình chăm sóc.
- Đặc điểm phát sinh gây hại của bệnh
Đây là loại nấm đa thực gây hại trên nhiều loại cây
trồng khác nhau, phát sinh phát triển thuận lợi trong điều kiện nhiệt độ cao,
ẩm độ cao nhưng thích hợp nhất là nhiệt độ 25-300C. Hạch nấm có thể
tồn tại 5 năm trong đất khô nhưng chỉ tồn tại 2 năm trên đất ẩm.
Sợi nấm chỉ sống được vài tuần và chết khi nguồn dinh
dưỡng được sử dụng hết. Nấm gây bệnh được bảo tồn trong đất và các tàn dư
cây trồng bằng hạch nấm hoặc sợi nấm, có khả năng sinh sống và nảy mầm ở độ sâu
khoảng 5-8cm, nếu bị vùi lấp sâu hơn sẽ không có khả năng nảy mầm.
Nấm không thể tồn tại trên đất bỏ hoang khoảng 2 năm.
Sự có mặt của tàn dư cây trồng chưa bị phân hủy trên ruộng tạo điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển và xâm nhiễm của nấm bệnh. Bệnh thường phát sinh nặng hơn
khi lượng lá rụng trên ruộng tích tụ quá nhiều chung quanh gốc.
6.2.7.
Héo rũ thối đen: Do nấm Phytophthora capsici.
Bệnh gây hại trên cây ớt trong suốt quá trình sinh
trưởng phát triển. Tùy từng giai đoạn và điều kiện ngoại cảnh khác nhau mà mức
độ gây hại của bệnh cũng khác nhau. Ở thời kỳ cây con, vết bệnh lúc đầu là là
một chấm nhỏ màu nâu hoặc màu đen ở rễ gốc thân. Sau đó vết bệnh
lan lên phía trên làm hại thân lá và lan xuống phía dưới gây hại rễ chính, gây
thối rễ, cây chết gục.
Khi gặp trời mưa độ ẩm cao toàn cây bị thối nhũn ra,
bề mặt mô bệnh thường có một lớp nấm màu trắng.Trời hanh khô cây bệnh nâu đen
héo và chết. Khi cây lớn, trên gốc thân có vết màu đen kéo dài về phía trên và
dưới. Khi chẻ phần thân thấy lõi có màu nâu đến nâu đen, nhưng đặc điểm này
không có ở những vị trí cao hơn.
- Đặc điểm phát sinh gây hại của nấm
Nấm phát sinh gây hại trong phổ nhiệt độ rộng 12-30oC.
Bệnh phát triển gây hại mạnh khi thời tiết nóng ẩm và đất ướt, lượng mưa lớn
hay tưới nước quá mức, nhất là khi trên ruộng đã có cây bị bệnh thì đây là điều
kiện để bệnh lây lan ra cả ruộng, vì du động bào tử của nấm gây bệnh có thể bơi
được trong nước.
Để phòng trừ
bệnh hại ớt một cách có hiệu quả nên áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp
sau:
+ Cày ải sớm để tiêu diệt nguồn dịch hại
trong đất.
+Thu hoạch ớt đúng thời vụ tránh để quả
quá lâu, nhất là khi trời mưa, ớt đến giai đoạn thu hoạch.
+ Vệ sinh đồng ruộng, không vứt quả, cây
bệnh trên ruộng.
+ Dùng giống kháng, giống ít nhiễm bệnh để
trồng.
+ Làm sạch cỏ dại để hạn chế nơi cư trú
của dịch hại.
+ Bảo vệ các loài thiên địch có lợi.
+ Dùng thuốc hóa học.
7. Để giống và thu hoạch:
a. Chọn giống và để
giống:
Chọn giống theo nguyên tắc 4 tốt (ruộng
tốt, đám tốt, cây tốt, quả tốt), trong thực tế thường chọn cây tốt và quả tốt.
Lấy cành cấp 3,4 có quả căng đều và đẹp mang đặc tính của giống. Quả chín hoàn toàn,
thu cả cuống đem về để vào nơi mát 2 - 3 ngày cho ớt tiếp tục chín sinh lý, sau
đó tách hạt giống bằng dao nhỏ rạch dọc quả và cắt 1/3 quả phía ngọn bỏ riêng
(đầu quả). Phần quả còn lại dùng que tách lấy hạt ngâm vào dụng cụ sành sứ hay
chậu men, nhựa, thủy tinh tránh không được ngâm trong đồ kim loại. Để 20 - 24h
hạt ớt lên men phân giải chất keo xung quanh hạt. Vớt hạt ra đãi sạch rồi phơi
vào nông nia, tránh phơi trực tiếp trên sân xi măng, mái tôn hoặc phơi giữa
trưa hạt mất sức nảy mầm, hạt khô để nguội đem bảo quản.
b. Thu hoạch và sơ chế:
* Thu hoạch:
Ớt chín trên ruộng theo lứa nên thu hoạch
xanh để bán thì ớt có nhiều quả trên cây. Nếu thu chín thì thu theo từng lứa
quả, thu cả cuống đem về phơi (70% số cây trên ruộng có màu quả đỏ) thì thu hoạch
được. Những quả chín chưa hoàn toàn (mới chuyển màu) cũng thu hết và mang về để
riêng 2 - 3 ngày sau nó sẻ tiếp tục chín.
- Phân loại: Sau thu hoạch đem về phân
loại, đem phơi. Ngày mưa hay đất ướt thì không thu hoạch.
- Ủ quả: khi thu hoạch về nên ủ thêm 2 -3
ngày đêm cho ớt chín đều màu đẹp rồi đem phơi.
- Phơi: tránh phơi trên mái tôn, sàn xi
măng sẽ làm rám quả mất giá trị thương phẩm. Có thể phơi trên bải cỏ, nong nia
2- 3 nắng , quả héo rồi đem phơi trên nền xi măng tiếp cho khô. Khi bóp quả nát
vụn là quả khô ( 12 - 13% nước) thì đạt yêu cầu xuất khẩu hay đem bảo quản.
Chú ý: Nếu khi phơi 1 - 2 nắng bị mưa ướt
quả thì cứ cho mưa thấm đều quả sau đó đem vào rải mỏng để hong khô và tiếp tục
phơi khi có nắng cho đến lúc đạt tiêu chuẩn bảo quản.
PHẦN
III: KỸ THUẬT TRỒNG MỘT SỐ GIỐNG ỚT PHỔ BIẾN
I. Kỹ
thuật trồng ớt sừng vàng.
1. Thời vụ : Có thể trồng quanh năm.
2. Làm đất trồng:
Đất trồng ớt phải chọn nơi quang đãng, có nhiều ánh
sáng, trước đó 2 – 3 vụ không trồng các cây họ Cà như: cà chua, cà tím, ớt… Sau
khi dọn đất sạch, cuốc lên một lớp sâu khoảng 2 – 3 tấc (càng sâu càng tốt vì
rễ ớt ăn sâu 70 – 80 cm), xáo đất nhỏ lại, nhặt sạch cỏ dại và lên liếp để
trồng. Mỗi liếp rộng khoảng 1 – 1,2m, dài tùy ý, cao 15 – 20cm (về mùa mưa hoặc
ở những vùng đất thấp có thể làm liếp cao 50 – 60 cm để tránh úng). Giữa hai
liếp có rãnh rộng 30cm. Khoảng cách trồng 50 – 80cm (25.000 cây/ha)
3. Gieo cây con:
Do hạt giống của giống cây này rất nhỏ nên nhất thiết
phải qua giai đoạn vườn ươm để sản xuất cây con. Sức khỏe của cây con đóng vai
trò quan trọng cho sự sinh trưởng, phát triển và tạo năng suất. Nếu có thể gieo
ươm tập trung, với tay nghề cao sẽ tạo cây con khỏe, đồng đều, ít sâu bệnh và
giảm giá thành (lượng giống sử dụng: 150 – 200 gr/ha).
a. Vườn ươm :
Cần chọn đất cao ráo, thoáng, không bị che rợp. Liếp
gieo rộng tới 0,8 – 1m, cao 20 – 30cm (tùy mùa vụ và chân đất). Đặt vỉ gieo
hoặc bầu gieo lên liếp. Mặt liếp cần bằng phẳng để liếp không đọng nước, cây
hưởng ánh nắng, nước tưới và dinh dưỡng đồng đều.
b. Đất gieo:
Trộn 1 đất + 1 phân chuồng hoai mục + 0,5
tro trấu (nếu có). Cho đất vào bầu hoặc vỉ gieo. Hạt giống được xữ lý bởi thuốc
trừ bệnh như Coc 85, Hạt vàng, Metyl MZ, Ridomyl, Benlate hoặc Rovral, trộn 1gr
hạt trong 1ml dung dịch thuốc (1gr thuốc + 400ml nước). Sau đó, gieo hạt vào
bầu hoặc vỉ gieo. Hạt gieo sâu khoảng 0,5 – 0,7cm. Sau khi gieo, phủ lưới hoặc
rơm. Rải Basudin, Diaphos 10 H, Sagosuper 3 G để trừ kiến và tưới ngay sau khi
gieo, sau đó tưới nước giữ ẩm mỗi ngày. Khi hạt nẩy mầm, cần gỡ bỏ lưới hoặc
rơm ngay để cây cứng cáp.
c. Tỉa định hình
cây:
Cần tiến hành 2 – 3 lần trong suốt giai đoạn vườn ươm,
tỉa những bầu có 2 cây, dặm sang chỗ khác.
Các lần sau: Tỉa bỏ cây yếu, cây dị hình, dời bầu gieo
xa hơn cho cây cứng cáp, kết hợp nhổ cỏ, bón thúc thêm nếu cây xấu.
d. Rèn cây:
Trước khi cấy 5 – 7 ngày, giảm nước từ từ, trước khi
cấy 2 – 3 ngày ngưng tưới (tưới lại khi cây có biểu hiện héo) để rễ phát
triển, cây cứng lại thì khi cấy cây ít chết. Trước khi cấy 2 – 3 giờ, cần tưới
thật đẫm cho cây hút no nước, chờ ráo nước thì chuyển cây ra ruộng để cấy. Nên
cấy cây lúc chiều mát, tránh làm vỡ bầu, ấn chặt gốc và tưới ngay sau khi cấy
cho cây không mất sức. Cây con đạt 5 – 6 lá thật (25 – 30 ngày) có thể đem cấy.
4. Chăm sóc:
a. Trồng dặm:
Sau khi cấy 7 ngày, kiểm tra đồng ruộng và dặm những
cây chết vào buổi chiều mát, trồng xong tuới ngay để tránh cây bị héo.
b. Tưới nước:
Đảm bảo đầy đủ nước cho cây sinh trưởng, giữ ẩm thường
xuyên, tránh quá khô hoặc quá ướt.
c. Bón phân:
- Bón lót khi làm đất (ha) 30 tấn phân chuồng hoai +
1.500kg vôi (để ớt có nhiều quả)+ 200 kg 20-20-15, nếu có màng phủ nông nghiệp.
- Bón thúc: Chia đều số lượng phân NPK còn lại (800kg)
làm 4 – 6 lần, giữa các lần bón thúc hoặc thu hoạch có thể phun thêm phân bón
lá như Miracle – Gro, Yogen… Khi trái bắt đầu lớn, phun định kỳ CaCl2 0,4%
trên trái, ½ tháng/lần.
d. Tỉa nhánh – trái:
Khi trồng được 20 – 25 ngày, tiến hành tỉa bỏ những
nhánh gốc dưới cháng ba của cây, giúp cho cây ra hoa tập trung, dễ chăm sóc,
tạo sự thông thoáng cho ruộng, ít bệnh.
e. Cắm chà:
Cây ớt mang nhiều trái, gặp gió mạnh dễ đổ ngã,
cần cắm cây chống đỡ, tốt nhất là 1 cây chà/1 cây ớt, có thể 3 – 4 cây ớt
cắm 1 cây chà. Sau đó, dùng dây nilon đen căng thật thẳng theo hàng cây chà đã
cắm, căng nhiều tầng, tầng dưới cùng ngay bên dưới điểm phân cành, buộc dây vào
thân ớt để cây có thể đứng vững.
5. Phòng trừ sâu
bệnh
a. Đối với côn trùng: Phun định kỳ 5 – 7 ngày/lần để
phòng sâu xanh, rầy, rệp, ruồi đục trái… có thể dùng Bassa, Oncol, Lannate,
Fastac, Sherpa, Confidor, Supracide…
b. Đối với bệnh:
* Bệnh chết rạp cây
con:
Phổ biến là loài Pythium sp. Phát sinh khi nhiệt
độ không khí cao, ẩm độ đất cao. Không để đất bị úng hoặc mưa lớn rơi trực tiếp
xuống vườn ươm. Nên xử lý đất trước khi đặt bầu hoặc vỉ bằng Benlate C,
Sun-phát đồng 1%. Trước khi đưa cây con ra ruộng trồng, phải phun thuốc trừ
bệnh bằng Ridomil, Rovral, Daconil…
* Bệnh thán thư
hay đen trái:
Đây là một trong những bệnh gây hại rất nghiêm trọng,
gây thối quả hàng loạt thường gây hại khi ớt già đến chín, bị nặng cũng có thể
bị thất thu hoàn toàn. Nấm bệnh tồn tại rất lâu trong đất, trên cây và trong
hạt cây bệnh, nông dân thường gọi nôm na là bệnh “đén trái”. Bệnh rất khó phòng
trị trong mùa mưa, vì bệnh chỉ xuất hiện rất trễ khi trái chín.
- Tác nhân: do nấm Colletotrichum spp.
-
Triệu chứng:
Đầu tiên có vết ướt trên quả, sau đó lan rộng,
biến thành màu tối thường có vết vòng, ở trung tâm vết bệnh có màu đen. Trong
thời tiết ẩm, thấy có lớp bào tử nấm màu hồng cam trên bề mặt vết bệnh.
-
Điều kiện lây lan và phát triển:
Bệnh thường gây hại nặng trong mùa mưa, có nhiều sương
mù, bệnh lan truyền do nấm tồn tại trên tàn dư cây của vụ trước, ở những đất
trồng ớt quanh năm, bón phân không cân đối.
- Biện pháp phòng trị:
Khi bệnh xuất
hiện thì không tưới nước lên cây để phòng tránh lây lan nhanh
Bón phân cân
đối
Luân canh cây
trồng
Hái và tiêu hủy
trái bị hư
Có thể phun
ngừa bằng một số thuốc: Score 250 EC, Antracol 70 WP, Folan 50 SC, Super
Mastercrop 21 AS, Penncozeb 80 WP, Cocman 69 WP, Dithane M-45 80 WP, Topsin M
70 WP… 1-2 tuần phun 1 lần khi trái còn nhỏ.
* Bệnh thối đít
trái do thiếu Canxi:
Phun định kỳ 7 – 10 ngày/ lần khi cây bắt đầu cho trái
bằng CaCl2, hoặc nitrat canxi nồng độ 20 – 25gr/16 lít.
Chú ý: Canxi trong cây không chuyển vị, nên phun lên
trái chứ không qua lá.
6. Thu hoạch:
Bắt đầu thu hoạch 105 ngày sau khi gieo.
Trái non màu trắng, xanh hơi vàng nhạt, khi trái
chuyển qua màu vàng (trái già) và một phần trái hơi cam là có thể thu hoạch.
Thịt trái dày, rất cay, thơm. Trái dài 10 – 12cm. Nếu chăm sóc tốt, năng suất
có thể đạt 25 – 40 tấn/ha.
II.
Kỹ thuật trồng Ớt chỉ thiên
Ớt chỉ thiên là giống ớt rất cay.
Được những người nghiền ớt ưa chuộng. Nhìn chung tất cả các loại ớt cay trong
đó có ớt chỉ thiên đều dễ chồng không kén đất có thể trồng trên đất bãi, đất
đồi, đất ruộng. Nhưng trồng ớt tốt nhất là trên đất bãi hàng năm có ngập phù sa
hoặt đất trong đồng có độ màu mỡ khá, thoát nước, giãi nắng.
1.
Thời vụ gieo:
- Gieo tháng 11-12, trồng tháng 1-2. Vụ hè tháng 6-7
trồng tháng 8-9.
- Ươm cây giống: Hạt ngâm nước 2 đêm, đem bọc vào vải
trộn với mùn, ủ 3-4 ngày cho hạt mọc mầm. Gieo vãi hạt trên luống, phủ một lớp
đất bột mỏng, phủ một lớp trấu hay rơm rạ, tưới nước giữ ẩm. Sau khi gieo 8-10
ngày thì cây mọc. Nếu gặp rét thì che phiên hoặc phủ nilon chống rét cho cây
con. Cây 25-30 ngày tuổi có thể đánh đi trồng.
- Luống rộng 1-1,2m, cao 20-25cm, rãnh luống 25-30cm.
Bổ hốc hàng cách hàng 50cm. Cây cách cây 50cm. Bón phân cho 1ha như sau: Phân
chuồng 30 tấn+ 368 kgN+ 368kg P2O5+ 184kg K2O. Nếu đất chưa bón vôi
500-1000kg/ha. Phân chuồng + phân lân+ phân kali để bón lót. Phân đạm dùng để
bón thúc.
2. Chăm sóc:
- Tưới nước đủ ẩm sau khi trồng suốt thời gian sinh
trưởng.
- Bón thúc: 3 lần lúc cây hồi xanh, trước lúc ra hoa
và thu quả lứa đầu. Dùng phân đạm pha loãng để tưới cho cây. Có điều kiện bón
thêm nước phân chuồng ủ mục pha loãng.
Chú ý phòng trừ sâu bệnh như: sâu khoang, bệnh thán
thư.
3. Thu hoạch:
Sau khi trồng khoảng 2 tháng thì ớt ra hoa. Đến tháng 3
thì thu được lứa quả đầu tiên. Trên cây ớt có nhiều lứa hoa. Có quả đang chín,
có quả già và đang có hoa. Nếu nơi tiêu thụ gần thì khi xuất quả thật chín.
Tránh không làm ảnh hưởng đến chùm hoa trên cây. Sau đó cứ 3 ngày thu quả 1
lần. Nếu không bị sâu bệnh phá hại, chăm sóc tốt, cây khoẻ có thể thu liên tiếp
trên chục đợt và kéo dài đến 2 tháng.
III.
Kỹ thuật trồng ớt ngọt
1. Chọn giống:
Hiện có 2 nhóm chính: Nhóm quả vỏ xanh đậm khi còn
xanh, khi chín thì chuyển sang màu đỏ và nhóm quả chín có màu vàng. Quả hình
khối hoặc hình vuông, thịt quả dày, trọng lượng bình quân trên 100g/quả, ăn hơi
ngọt, không cay. Hiện các cửa hàng bán giống rau đang có các giống lai F1 được
nhập khẩu từ Mỹ, Thái Lan, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc vừa cho năng suất
cao, chất lượng tốt và khả năng chống chịu bệnh tốt, đặc biệt là bệnh héo xanh.
2. Thời vụ trồng:
Vụ Đông-Xuân, gieo hạt vào khoảng tháng 8, tháng 9 để
trồng vào tháng 10, thu hoạch vào tháng 1-2, thường cho năng suất cao nhất. Vụ
Xuân-Hè gieo hạt vào tháng 12 để trồng vào tháng 1 hoặc đầu tháng 2, thu quả
vào tháng 3-4, năng suất thấp hơn, dễ bị thối trái nhưng bán được giá cao vì
trái vụ.
3. Gieo
ươm cây giống trong khay bầu:
Trộn giá thể theo tỷ lệ1:1:1 với các thành phần như
sau: 1 phần phân chuồng hoai mục + 1 phần tro bếp hoặc trấu hun, hoặc xơ dừa +
1 phần lớp đất mặt giàu mùn được đập nhỏ. Nếu đất nghèo dinh dưỡng thì nên bổ
sung thêm 0,5 kg phân lân cho 10 kg hỗn hợp. Bầu gieo hạt có thể được làm bằng
lá chuối, túi nilon hoặc các khay xốp hiện đang được bán rộng rãi ở các cửa
hàng vật tư nông nghiệp. Nên gieo trong các khay bầu xốp vừa tiết kiệm được hạt
giống (mỗi lỗ gieo 1 hạt), vừa đảm bảo được chất lượng cây con khỏe mạnh, đồng
đều và chủ động được thời vụ trồng, không bị ảnh hưởng bất lợi của thời tiết.
Gieo xong thì phủ một lớp đất bột mỏng, phủ tiếp một lớp rơm rạ mỏng nữa rồi
tưới nước đủ ẩm. Có thể rải trộn đều trong đất hoặc rắc xung quanh vườn ươm một
trong các loại thuốc sau đây nhằm chống kiến và côn trùng tha hạt như Vibasu,
Furadan hoặc Basudin. Những ngày đầu tưới 2 lần/ngày, sau đó tưới 1 ngày/lần
rồi đến 2 ngày/lần tùy theo thời tiết, nhưng luôn đảm bảo độ ẩm cho cây sinh
trưởng bình thường. Khi hạt nẩy mầm ta dỡ rơm, rạ để cho cây mọc khoẻ và thẳng.
Thời gian này nên phun hoặc tưới để phòng bệnh lở cổ rễ cho cây con bằng thuốc
Viben C hay Benlat khi cây đã có 1-2 lá thật. Khi cây chuẩn bị đem trồng thì
ngừng tưới nước 1-2 ngày nhằm làm cho cây cứng cáp. Trước khi trồng nên tưới
đẫm cho dễ nhổ cây khỏi khay, không bị vỡ bầu, đứt rễ. Cây con đủ tiêu chuẩn
trồng là cây có chiều cao 10-12cm, có khoảng 6 lá thật, khỏe mạnh, thân thẳng,
tuổi cây khoảng 25-30 ngày sau khi gieo.
4. Chọn
và làm đất trồng:
Chọn loại đất thịt nhẹ đến trung bình, đất cát
pha giàu dinh dưỡng, tơi xốp, dễ thoát nước, độ pH từ 5,5-7,0 để trồng ớt ngọt.
Nên trồng luân canh với các cây trồng khác họ, không trồng ớt trên các ruộng mà
vụ trước đã trồng như ớt cay, cà chua, khoai tây... để tránh nhiễm các loại
bệnh héo xanh, thán thư... Đất được cày, bừa kỹ sau khi đã phơi ải tốt. Lên
luống rộng 1,4m, cao 30-35cm ( tùy theo mùa vụ: Vụ đông lên thấp, vụ Xuân-Hè
lên luống cao để tránh úng ngập do mưa nhiều), luống rộng 30cm.
5. Lượng phân bón:
Bón cho 1 sào Bắc bộ (360m2) cần 700-800kg phân chuồng
hoai mục, 20-25 kg phân lân, 12-15 kg đạm urê và 12-15 kg phân kali sunphát.
Nếu đất chua có thể bón thêm khoảng30kg vôi bột. Bón lót toàn bộ phân chuồng,
vôi bột, 1/2 phân lân, 1/2 phân kali và 2 kg đạm bằng cách trộn đều phân với
đất mặt luống rồi phủ màng phủ nông nghiệp để hạn chế cỏ dại, giữ được độ ẩm
cho đất, hạn chế sự rửa trôi phân bón, đồng thời hạn chế được sâu bệnh gây hại.
Chú ý phủ mặt đen xuống dưới, mặt ánh bạc lên trên và dùng đất để chèn mép bạt
2 bên cho chặt.
6. Trồng cây và
chăm sóc:
Dùng ống sắt hoặc ống bơ rỗng có đường kính
khoảng 8cm, cắt thành hình răng cưa sắc để đục lỗ màng phủ với khoảng cách hàng
cách hàng 70cm, cây cách cây 50-60cm tùy theo giống. Dùng bay nhỏ xới nhẹ vào
lỗ đã đục sẵn để trồng vừa đến ngang cổ rễ và tưới nhẹ cho chặt gốc, cây nhanh
bén rễ, hồi xanh. Nên trồng vào những ngày râm mát hoặc buổi chiều tối. Tùy
theo thời tiết mà tưới nước cho cây đủ ẩm thường xuyên thì mới lớn nhanh, sau
khi trồng 10-12 ngày thì tiến hành bón thúc lần đầu kết hợp với vun xới nhẹ,
lần 2 khi cây ra hoa rộ, lần 3 sau khi thu quả đợt đầu.
Với cây ớt ngọt nên trồng trong nhà lưới để đảm bảo
nhiệt độ, độ ẩm và hạn chế tối đa sự gây hại của côn trùng, sâu bệnh.
IV. Kỹ thuật trồng
ớt cay
1. Thời vụ trồng ớt:
Ớt có thể trồng được 3 vụ
trong năm:
- Vụ sớm: Gieo hạt tháng
8 - 9, thu hoạch từ tháng 12 - 1 dương lịch.
- Vụ chính (Đông Xuân):
Gieo hạt tháng 10-11, thu hoạch tháng 2-3 dương lịch.
- Vụ Hè Thu: Gieo tháng
4-5, thu hoạch 8-9 dương lịch.
2. Giống:
Hiện nay, giống ớt được
trồng phổ biến: Ớt Sừng Trâu, Chỉ Thiên, ớt Búng, ớt Hiểm...
3. Chuẩn bị đất:
Cày xới phơi đất kỹ, lên
luống cao 20cm, rộng 1m. Bón lót: 100kg vôi và 1 tấn phân chuồng, 50kg super
lân, 3kg Kali, 2kg Calcium nitrat, 10-15kg phân NPK(16-16-8) cho 1.000m2.
Sử dụng màng phủ nông nghiệp để hạn chế cỏ dại, sâu bệnh, giảm hao hụt phân
bón, nước tưới.
4. Gieo trồng:
Xử lý hạt ớt bằng nước ấm
3 sôi 2 lạnh (530C) trong 30 phút, hong khô dưới ánh nắng mặt trời,
gieo hạt vào bầu đã được xử lý thuốc để ngăn ngừa mầm bệnh, sâu hại tấn công.
Khi cây có từ 4-5 lá thật (30-35 ngày sau gieo), thì chuyển cây con ra trồng.
Có thể trồng theo khoảng cách: 50 x 30 cm hoặc 70 x 60 cm.
5. Chăm sóc:
- Tưới nước: Mùa mưa cần
đảm bảo thoát nước tốt, mùa nắng phải tưới nước đầy đủ. Tưới rãnh (tưới thấm)
là phương pháp tốt nhất, tiết kiệm nước, không văng đất lên lá, giữ ẩm lâu,
tăng hiệu quả sử dụng phân bón. Mùa mưa cần chú ý thoát nước tốt.
- Tỉa nhánh: Tỉa bỏ các
cành, lá dưới điểm phân cành để cây ớt phân tán rộng và gốc được thông thoáng.
Nên tỉa cành lúc nắng ráo.
- Làm giàn: Giàn được làm
bằng cây hay dây ni lông. Giàn giữ cho cây đứng vững, dễ thu trái, kéo dài thời
gian thu hoạch, hạn chế trái bị sâu bệnh do đỗ ngã. Mỗi hàng ớt cắm 2 trụ cây
lớn ở 2 đầu, dùng dây căng dọc theo hàng ớt nối với 2 trụ cây, khi cây ớt cao tới
đâu căng dây tới đó để giữ cây đứng thẳng.
- Bón phân: Phân nên chia
làm 4 lần bón:
Lần 1: 20 - 25 ngày sau
khi trồng: 4kg Urê + 3kg Kali + 10kg NPK (16-16-8) + 2kg Calcium nitrat.
Lần 2: Khi ớt đã đậu trái
đều: 6kg Urê + 5kg Kali + 10 - 15kg NPK (16-16-8) + 2kg Calcium nitrat.
Lần 3: Khi bắt đầu thu
trái: 6kg Urê + 5kg Kali, 10 - 15kg NPK (16-16-8) + 3kg Calcium nitrat.
Lần 4: Khi thu hoạch rộ:
4kg Urê + 4kg Kali, 10-15kg NPK (16-16-8) + 3kg Calcium nitrat.
Chú ý: Trong giai đoạn
nuôi trái, trái ớt thường bị thối đuôi do thiếu canxi. Vì vậy, nhà nông cần
phun bổ sung thêm Canxi, có thể bằng Clorua canxi (CaCl2) phun định
kỳ 7-10 ngày/lần. Đồng thời, phun thêm phân vi lượng có Bo để ớt dễ đậu trái và
ngừa trái bị sẹo.
6. Thu hoạch:
Thu hoạch ớt khi trái bắt
đầu chuyển màu. Ngắt cả cuống trái, tránh làm gãy nhánh. Ớt cay cho thu hoạch
35-40 ngày sau khi trổ hoa. Ở các lứa rộ, thu hoạch ớt mỗi ngày, bình thường
cách 1-2 ngày thu 1 lần. Nếu chăm sóc tốt thời gian thu hoạch có thể kéo dài
hơn 2 tháng năng suất trái đạt 20-30 tấn/ha.
7. Một số sâu, bệnh
thường gặp:
- Bọ trĩ, bọ phấn trắng:
Có thể dùng Confidor, Admire... để phòng trị.
- Sâu xanh đục trái: Sâu
phá hại búp non, nụ hoa, cắn điểm sinh trưởng, đụt thủng quả, khi trái ớt còn
xanh cho đến lúc gần chín.
- Sâu ăn tạp: Sâu gây hại
trên lá, và cây con. Phòng trị bằng cách ngắt bỏ tổ trứng, tổ sâu non hoặc
dùng: Sumicidin, Cymbus, Decis...
- Bệnh héo cây con: Bệnh
thường gây hại cây con trong líp ương hoặc sau khi trồng khoảng một tháng tuổi.
Dùng Validacin, Anvil, Ridomil; Copper -B,....
- Bệnh héo chết cây: Đối
với bệnh do vi khuẩn, cần nhổ và tiêu hủy; dùng vôi bột rãi vào đất, hoặc
Starner, New Kasuran, Copper Zin C tưới nơi gốc cây hay phun ngừa bằng Kasumin.
Đối với cây bệnh do nấm, cần phát hiện sớm, phun ngừa hoặc trị bằng thuốc
Copper B, Derosal, Appencarb super, Ridomil, Score.
- Bệnh thán thư: Có thể
sử dụng một số loại thuốc: Copper B, Mancozeb, Antracol, Ridomil,...
V. Kỹ thuật trồng ớt trái mùa
Ớt (Capsicum annum) là
loại quả rất có giá ở Indonesia.
Cho đến nay, việc trồng ớt ở Indonesia
vẫn theo mùa, cho nên sản lượng và giá cả bị dao động rõ rệt trong năm. Nói
chung, ở Indonesia
thường trồng ớt vào đầu mùa khô. Sản lượng hạ thấp vào mùa mưa. Nhằm kéo dài
mùa vụ thu hoạch và bình ổn giá cả, một hệ thống trồng ớt trái mùa đã được
triển khai, bằng cách sử dụng plastic đen để phủ đất.
Khả năng thích ứng kỹ
thuật
Kỹ thuật này sẽ thích ứng
với mọi diện tích ruộng, từ nhỏ đến lớn.
Lợi thế kỹ thuật: Sản
lượng ớt và giá cả sẽ ổn định suốt năm, thay vì dao động giữa thừa và thiếu,
nông dân có được nguồn thu nhập thêm trong mùa khô.
Kỹ thuật hạt giống: Hạt
giống phải chín già, sạch, đều nhau và không bị sâu bệnh. Những quả giống chín
già phải có màu đỏ.
Những yêu cầu chăm bón
Đất phải xốp, dễ thoát
nước và giàu chất hữu cơ, không có quá nhiều hàm lượng sét. Độ pH 5,5-6,8.
Lượng nước vừa đủ, phải có rãnh thoát nước tốt.
Cây giống: Đất để ươm cây
giống là đất trộn phân, với tỷ lệ 1:1. Cây giống ươm trong các túi nhựa, hay
trên các luống đất được làm kỹ.
Đất luống phải được don
sạch cỏ, rác rưởi, và sau đó được cày bừa kỹ.
Cây giống là cây ưa sáng,
nhưng phải được che bằng giàn có khung đỡ, tránh ánh sáng trực sạ. Khung đỡ
rộng từ 1-2m và cao 40-50cm. Được phủ bằng rơm rạ hay vật liệu tương tự. Các
mặt xung quanh để ngỏ để tạo sự thông thoáng cho luống trồng.
Cây giống cần được tưới
nước hằng ngày, hoặc khi cần thiết. Khi cây giống được 25-30 ngày tuổi có thể
đem ra trồng được.
Làm đất: Đất cần được dọn
sạch và cày bừa. Nếu độ pH đất thấp, thì bón thêm dolomite hay vôi. Nếu đất rất
chua, thì bón khoảng 2tấn/ha dolomite, phối hợp với phân trộn compost và chế
phẩm phân bón cơ bản. Phân bón cơ bản cần dùng là urê trộn lẫn với phân
(300kg/ha), SP36 (250-300kg/ha), và KCl (Kaliclorua) (250kg/ha). Cần phải làm
luống cao trước khi trồng cây giống. Luống thường rộng 120cm, rãnh giữa luống
rộng 40cm và sâu 20cm quanh luống.
Phủ plastic đen: Khoảng
12 cuộn/ha. Plastic có màu ánh bạc ở mặt trên và màu đen ở mặt dưới (Mặt ánh
bạc sẽ phản chiếu ánh nắng mặt trời và xua đuổi côn trùng, mặt tối bên dưới sẽ
làm cho cỏ không mọc được).
Plastic được rải vào buổi
trưa khi ánh nắng mặt trời bắt đầu gay gắt. Độ nóng sẽ làm co giãn chất nhựa
cho nên nó dễ bị dão. Plastic nên được căng đều trên mặt luống với mặt ánh bạc
hướng lên trên.
Mép plastic được kéo thấp
xuống các bờ luống và được buộc chặt vào vị trí bằng các lạt tre. Chúng dài
khoảng 40cm, được uống cong một nửa và được cắm xuống đất để giữ cho các cạnh
cách nhau 50cm. Trên mặt plastic trổ các lỗ chữ thập tại những vị trí trồng cây
để cho cây có thể tăng trưởng.
Trồng trọt: Mỗi luống
trồng thành 2 hàng. Các cây cách nhau 50cm và các hàng cách nhau 70cm. Trồng ớt
vào buổi sáng sớm hay lúc hoàng hôn.
Bảo vệ: Cây giống bị chết
hay sâu bệnh thì cần được thay thế. Nước tưới được bơm vào cho từng gốc cây.
Phòng trừ sâu bệnh: Trừ
ruồi hại quả bằng bẫy bả eugenol methyl. Các loài gây hại và dịch bệnh đều có
thể kiểm soát bằng việc phun các loại thuốc bảo vệ thực vật thích hợp
Thu hoạch và sau thu
hoạch: Sau 60-70 ngày, lứa ớt đầu tiên có thể thu hoạch. Đến thời gian này,
chúng sẽ biến thành màu đỏ tươi.
Việc bao gói cho vận
chuyển cần phải tạo những lỗ thoáng khí. Có thể dùng loại túi lưới. Nơi bảo
quản phải khô ráo và thoáng mát.
Sưu tầm tháng 01.2017